Ngày 14/01/2025, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Quyết định số 162/QĐ-BTNMT về việc công bố Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên Lưu vực sông Srêpốk.
Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên Lưu vực sông Srêpốk được công bố nhằm mục tiêu phục vụ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân. Đồng thời, làm căn cứ để các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với Kịch bản nguồn nước theo quy định tại khoản 1, khoản 5 và khoản 6 Điều 35 của Luật Tài nguyên nước năm 2023 và khoản 2 Điều 43 của Nghị định số 53/2024/NĐ-CP ngày 16 tháng 5 năm 2024 của Chính phủ Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước.
Phạm vi xây dựng kịch bản lưu vực sông Srêpốk bao gồm 10 tiểu lưu vực sông: Ia Đrăng; Ia Lốp; Thượng Ea H'leo; Hạ Ea H'Leo; Thượng Srêpok; Hạ Srêpok; Thượng Ea Krông Ana; Hạ Ea Krông Ana; Thượng Ea Krông Nô; Hạ Ea Krông Nô với tổng diện tích 18,230 km2.
Nội dung công bố của Kịch bản nguồn nước theo quy định tại khoản 4 Điều 41 của Nghị định số 53/2024/NĐ-CP, bao gồm: Hiện trạng nguồn nước trên lưu vực sông Srêpốk; Dự báo xu thế diễn biến mưa, dòng chảy, lượng nước tích trữ trong các hồ chứa nước lớn, quan trọng; mực nước trong các tầng chứa nước trong kỳ công bố Kịch bản nguồn nước; Nhu cầu khai thác, sử dụng nước của các ngành trong kỳ công bố Kịch bản; Trạng thái của nguồn nước trên lưu vực sông Srêpốk; Kết luận và kiến nghị.
Kỳ công bố Kịch bản, trong mùa cạn năm 2025 (từ tháng 01/2025 đến tháng 6/2025).
Tiềm ẩn nguy cơ thiếu nước nếu không khai thác, sử dụng hợp lý
Theo Kịch bản nguồn nước (lần đầu) trên Lưu vực sông Srêpốk được công bố, tổng nhu cầu khai thác, sử dụng nước của các ngành (trừ thủy điện) trên lưu vực sông Srêpốk khoảng 1,65 tỷ m3, trong đó: tiểu vùng Thượng Ea Krông Nô khoảng 108 triệu m3, tiểu vùng Hạ Ea Krông Nô khoảng 43 triệu m3, tiểu vùng Thượng Ea Krông Ana khoảng 528 triệu m3, tiểu vùng Hạ Ea Krông Ana khoảng 111 triệu m3, tiểu vùng Thượng Srêpốk khoảng 276 triệu m3, tiểu vùng Hạ Srêpốk khoảng 75 triệu m3, tiểu vùng Thượng Ea H’leo khoảng 290 triệu m3, tiểu vùng Hạ Ea H’leo khoảng 20 triệu m3, tiểu vùng Ia Lốp khoảng 130 triệu m3 và tiểu vùng Ia Đrăng khoảng 66 triệu m3.
Trong đó, tổng nhu cầu khai thác, sử dụng nước cho sinh hoạt, công nghiệp trên lưu vực trong mùa cạn 2025 khoảng 50,5 triệu m3. Tổng nhu cầu khai thác, sử dụng nước cho nông nghiệp trên lưu vực sông Srêpốk khoảng 1,48 tỷ m3 và chủ yếu tưới cho các loại cây chủ lực như: lúa, cà phê, hồ tiêu, cao su.... Tuy nhiên, chỉ khoảng 20% diện tích đất nông nghiệp được đáp ứng bởi các hệ thống công trình thủy lợi, thủy điện trong vùng, phần diện tích còn lại chủ yếu khai thác từ nguồn nước mưa và nguồn nước dưới đất.
Sản lượng điện dự kiến trong mùa cạn năm 2025 của 10 nhà máy thủy điện (Krông Nô 2, Krông Nô 3, Buôn Tua Srah, Chư Pông Krông, Buôn Kuốp, Hòa Phú, Đrây H’linh, Srêpốk 3, Srêpốk 4, Srêpốk 4A) thuộc Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông Srêpốk đạt 1.306 triệu kWh, cao hơn khoảng 02% so với sản lượng điện cùng kỳ năm 2024 và thấp hơn khoảng 10% so với sản lượng điện TBTK. Theo đó, nhu cầu nước phát điện của 10 hồ chứa vào khoảng 6,9 tỷ m3, tăng khoảng 4,4% so với cùng kỳ năm 2024 và giảm khoảng 9,2% so với trung bình thời kỳ (TBTK). Riêng hồ Buôn Tua Srah, trong mùa cạn năm 2025 có sản lượng điện dự kiến là 154,8 triệu kWh với nhu cầu nước khoảng 1,3 tỷ m3, tăng khoảng 4,6% so với cùng kỳ năm ngoái và giảm khoảng 3,7 % so với TBTK.
Trên cơ sở kết quả dự báo xu thế diễn biến nguồn nước mặt, nguồn nước dưới đất, khí tượng, thủy văn trên lưu vực sông Srêpốk, nhu cầu sử dụng nước, yêu cầu về nguồn nước trên lưu vực phục vụ cấp nước sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, thủy điện và các yêu cầu về bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng trong kỳ công bố kịch bản, về tổng thể nguồn nước các hồ chứa lớn, quan trọng, nguồn nước trên các tiểu vùng, tiểu lưu vực sông cơ bản ở Trạng thái bình thường, lượng nước có thể khai thác bảo đảm đủ cho các nhu cầu sinh hoạt, an sinh xã hội, các ngành kinh tế, bảo vệ môi trường.
Tuy nhiên, nguồn nước trên lưu vực trong kỳ công bố kịch bản vẫn tiềm ẩn nguy cơ xảy ra tình trạng thiếu nước nếu không khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả.
Xây dựng kế hoạch khai thác, sử dụng phù hợp với kịch bản nguồn nước
Trước tình hình đó, Bộ TN&MT thấy rằng, để giảm thiểu nguy cơ có thể xảy ra thiếu nước, đặc biệt là ưu tiên bảo đảm cấp nước cho sinh hoạt trên lưu vực sông Srêpốk trong mọi tình huống, Bộ Tài nguyên và Môi trường đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, chỉ đạo việc chủ động lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo nhu cầu sử dụng nước bình thường của từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Tuy nhiên, các kế hoạch sử dụng nước phải lập trên nguyên tắc tiết kiệm nước, tránh thất thoát, lãng phí, dự phòng nguy cơ xảy ra hạn hán, thiếu nước trong các tháng cuối mùa cạn.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức, chỉ đạo, đôc đốc các địa phương rà soát, nâng cao năng lực hệ thống các hồ chứa thủy lợi, điều chỉnh các quy trình vận hành công trình, hệ thống công trình thủy lợi bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, đa mục tiêu, và bảo đảm lưu thông của dòng chảy trong hệ thống công trình, không gây ứ đọng, ô nhiễm nguồn nước; chỉ đạo rà soát, chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện nguồn nước của từng tiểu vùng trên lưu vực. Đặc biệt là các khu vực có nguồn nước dưới đất hạn chế, khu vực khó khăn để khai thác nguồn nước mặt (khu vực có địa hình có độ dốc lớn, bị chia cắt), khu vực thiếu các công trình tích trữ nước, hệ thống công trình thủy lợi chưa đáp ứng nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp.
Bộ Công Thương chỉ đạo Tập Đoàn điện lực Việt Nam, Công ty TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện Quốc gia xây dựng kế hoạch vận hành các hồ chứa thủy điện đáp ứng nhu cầu nước ở hạ du các hồ chứa trên cơ sở tuân thủ quy định của Quy trình vận hành liên hồ chứa trên lưu vực sông. Đồng thời, rà soát, điều chỉnh kế hoạch huy động điện của các nhà máy thủy điện trên lưu vực sông bảo đảm phù hợp với điều kiện, khả năng của nguồn nước và bảo đảm nguồn nước cấp cho hạ du đến cuối mùa cạn năm 2025.
Bộ Xây dựng phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh chỉ đạo, triển khai công tác bảo đảm cấp nước sinh hoạt cho người dân và cấp nước cho sản xuất ở đô thị, khu, cụm công nghiệp, khu công nghệ cao.
UBND các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng rà soát, nâng cao năng lực hệ thống các hồ chứa thủy lợi, điều chỉnh các quy trình vận hành công trình, hệ thống công trình thủy lợi bảo đảm sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả, đa mục tiêu và bảo đảm lưu thông của dòng chảy trong hệ thống công trình, không gây ứ đọng, ô nhiễm nguồn nước.
Xây dựng các công trình điều tiết, trữ nước trong quy hoạch về tài nguyên nước, quy hoạch thủy lợi và các quy hoạch khác có liên quan, ưu tiên các địa phương có nguy cơ xảy ra hạn hán, thiếu nước.
Xây dựng, nâng cấp hệ thống dẫn nước từ các hồ chứa thủy lợi, đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn nước, tránh thất thoát, lãng phí; đối với các hồ chứa thủy lợi vừa và nhỏ chỉ điều tiết nước cho hoạt động tưới khi thực sự có nhu cầu.
Tại các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước thuộc các huyện: Đắk Mil, Tuy Đức, Krông Nô, Đắk Glong, Cư Jút, Đắk Song của tỉnh Đắk Nông; các huyện Đức Cơ, Chư Sê, Chư Pưh, Chư Prông của tỉnh Gia Lai và các huyện, thị xã Buôn Hồ, Krông Ana, Krông Pắk, Krông Búk, Krông Bông, Krông Năng, Cư M'gar, Ea Súp, Ea H'Leo, M'Đrắk, Buôn Đôn của tỉnh Đắk Lắk, nghiên cứu, cần đầu tư, xây dựng hệ thống hồ chứa, đập dâng; cải tạo, nâng cấp hệ thống công trình thủy lợi; xây dựng, nâng cao năng lực cấp nước của các nhà máy cấp nước tập trung để đảm bảo cấp nước sinh hoạt cho người dân.
Rà soát, chuyển đổi cơ cấu cây trồng nhằm giảm nhu cầu sử dụng nước tưới tại các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước.
Tăng cường giám sát chặt chẽ việc khai thác nước dưới đất, trong đó lưu ý việc khai thác nước dưới đất để tưới cho các cây công nghiệp; có giải pháp khai thác luân phiên nguồn nước mặt và nguồn nước dưới đất, tránh việc khai thác nước dưới đất quá mức gây suy thoái, cạn kiệt nguồn nước.
Sớm hoàn thiện việc kiểm kê tài nguyên nước trong đó có nội dung kiểm kê các công trình khai thác nước dưới đất trên toàn bộ lưu vực sông (theo Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 27/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quyết định số 1383/QĐ-TTg ngày 04/8/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng kiểm kê tài nguyên nước quốc gia, giai đoạn đến năm 2025); khẩn trương rà soát, phê duyệt kế hoạch bảo vệ nước dưới đất trong đó xác định vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất đối với các khu vực, các tầng chứa nước.
Tăng cường điều tra, tìm kiếm, đánh giá các khu vực, nguồn nước dưới đất có tiềm năng bổ cập và khai thác để bố trí, xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung; nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp tích trữ nước mưa, nước mặt, bổ sung nhân tạo nước dưới đất để phục vụ cấp nước trong mùa khô.
Quy định trách nhiệm cụ thể để tổ chức thực hiện
Về trách nhiệm tổ chức, thực hiện, theo Quyết định số 162/QĐ-BTNMT, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các tỉnh: Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với Kịch bản nguồn nước ban hành kèm theo Quyết định này theo quy định tại khoản 1, khoản 6 Điều 35 của Luật Tài nguyên nước và khoản 2 Điều 43 của Nghị định số 53/2024/NĐ-CP.
Căn cứ Kịch bản nguồn nước được công bố, hiện trạng nguồn nước, nhu cầu sử dụng nước, nhận định xu thế khí tượng thủy văn, Cục Quản lý tài nguyên nước chủ trì, phối hợp với Tổng cục Khí tượng Thủy văn, Văn phòng thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, Trung tâm Quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Viện Khoa học tài nguyên nước, Viện Khoa học Khí tượng Thuỷ văn và Biến đổi khí hậu tính toán, cập nhật và trình Bộ Tài nguyên và Môi trường xem xét, quyết định việc cập nhật Kịch bản nguồn nước trong trường hợp xảy ra những diễn biến bất thường về khí tượng, thủy văn hoặc phát sinh các yêu cầu đối với nguồn nước nhằm đảm bảo an ninh nguồn nước cấp cho sinh hoạt, an ninh lương thực, an ninh năng lượng.
Các Bộ, ngành, địa phương và các tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu và phối hợp với Bộ Tài nguyên và Môi trường để xây dựng, cập nhật Kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Srêpốk.
Văn phòng Bộ, Báo Tài nguyên và Môi trường, Trung tâm Truyền thông tài nguyên và môi trường phối hợp với Cục Quản lý tài nguyên nước để đăng tải Kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Srêpốk trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài nguyên và Môi trường.
Ủy ban nhân dân các tỉnh Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông, Lâm Đồng chỉ đạo việc đăng tải Kịch bản nguồn nước trên cổng thông tin điện tử của địa phương theo quy định tại khoản 6 Điều 41 của Nghị định số 53/2024/NĐ-CP.