Gia Lai là một tỉnh nằm trên 3 lưu vực sông Sê San, SrêPốk và Ba có diện tích tự nhiên là 15.536,92 km2. Trong phạm vi tỉnh hiện nay có 47 công trình quan trắc tài nguyên nước dưới đất và 01 trạm quan trắc TNN mặt.
Đối với tài nguyên nước mặt
Tổng lượng mưa năm bình quân từ 1.750 – 2.500mm, trong đó lượng mưa mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 10) chiếm khoảng 75% tổng lượng mưa cả năm; mùa khô (từ tháng 11 – 4 năm sau) lượng mưa chiếm 25% tổng lượng mưa năm. Tổng lượng dòng chảy trung bình toàn tỉnh khoảng 23 tỉ m3/năm, phân bố trên các hệ thống sông lớn.
Trạm Ya Yun Hạ (tọa độ địa lý: 13o42’ vĩ độ Bắc, 108o10’ kinh độ Đông) nằm trên bờ phải sông YaYun, thuộc làng Chép xã AYun huyện Chư Sê tỉnh Gia Lai; thuộc lưu vực sông Ba, diện tích lưu vực khống chế là 1.150 km2; được quan trắc từ tháng 1 năm 2012. Các yếu tố quan trắc chủ yếu là nhiệt độ nước, mực nước, lưu lượng, hàm lượng chất lơ lửng và chất lượng nước.
Tổng lượng nước
Mực nước trung bình tháng 1 năm 2025 trên sông Yayun tại trạm YaYun Hạ là 20794cm, giảm 33cm so với tháng trước, giảm 16cm so với tháng cùng kỳ năm trước và giảm 7cm so với tháng 1 trung bình nhiều năm. Giá trị mực nước lớn nhất là 20859cm (ngày 1/1/2025), giá trị mực nước nhỏ nhất là 20756cm (ngày 31/1/2025).
Trong tháng 1 năm 2025, tại trạm YaYun Hạ có lưu lượng nước trung bình tháng khoảng 13,62m3/s, giảm khoảng 12,12m3/s so với tháng trước, giảm khoảng 0,28m3/s so với tháng cùng kỳ năm trước.
Trong tháng 1 năm 2025, tổng lượng nước trên sông YaYun chảy qua mặt cắt ngang tại trạm YaYun Hạ khoảng 36,5 triệu m3, giảm khoảng 32,5 triệu m3 so với tháng trước.
Chất lượng nước
Kết quả phân tích chất lượng nước sông và kết quả tính toán chất lượng nước sông theo chỉ số WQI cho thấy chất lượng nước sông Ba Ya Yun có thể sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng cần các biện pháp xử lý phù hợp.
Đối với tài nguyên nước dưới đất
Trong tỉnh được phân chia thành 4 tầng chứa nước chính, bao gồm: Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Đệ tứ không phân chia (q), tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa β(qp), tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp) và Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng vỉa các thành tạo đầm hồ trầm tích Neogen (n). Theo báo cáo thuộc dự án “Biên hội - thành lập bản đồ tài nguyên nước dưới đất tỷ lệ 1:200.000 cho các tỉnh trên toàn quốc”, tổng tài nguyên nước dự báo cho các tầng chứa nước như sau: Tầng chứa nước (Q) là 654.795 m3/ngày, tầng chứa nước (βqp) là 229.944 m3/ngày, tầng chứa nước β(n2-qp) là 5.373.122 m3/ngày, tầng chứa nước (n) là 91.165 m3/ngày.
Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích Đệ tứ không phân chia (q)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 01 có xu thế hạ so với tháng 12 năm 2024. Giá trị hạ thấp nhất là 1,48m tại xã Ia Piar, huyện Phú Thiện (CR313) và giá trị dâng cao nhất là 0,14m tại TT.Phú Thiện, huyện Phú Thiện (C7a).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -2,41m tại Tân An, huyện Đăk Pơ (LK15T) và sâu nhất là -11,49m tại xã Chư Rcam, huyện Krông Pa (LK36aT). Trong tháng 02 và tháng 3 mực nước có xu thế hạ, mực nước hạ từ 0,1m đến 0,84m.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pleistocen giữa β(qp)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 01 có xu thế hạ so với tháng 12 năm 2024. Giá trị hạ thấp nhất là 2,58m tại P.Yên Thế, TP.Pleiku (C3b).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,73m tại xã Biển Hồ, TP.Pleiku (LK159T) và sâu nhất là -20,12m tại P.Yên Thế, TP.Pleiku (C3b). Trong tháng 02 và tháng 3 mực nước có xu thế hạ, mực nước hạ từ 0,45m đến 2,74m.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng phun trào Bazan Pliocen-Pleistocen dưới β(n2-qp)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 01 có xu thế hạ so với tháng 12 năm 2024. Giá trị hạ thấp nhất là 2,13m tại TT.Phú Hòa, huyện Chư Pah (LK162T) và giá trị dâng cao nhất là 0,14m tại xã Ia Drăng, huyện Chư Prông (LK144T).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -0,17m tại xã Ia Drăng, huyện Chư Prông (LK144T) và sâu nhất là -21,47m tại TT.Phú Hòa, huyện Chư Pah (LK162T). Trong tháng 02 và tháng 3 mực nước có xu thế hạ, mực nước hạ từ 0,35m đến 3,09m.
Tầng chứa nước khe nứt lỗ hổng vỉa các thành tạo đầm hồ trầm tích Neogen (n)
Trong phạm vi tỉnh, mực nước trung bình tháng 01 có xu thế hạ so với tháng 12 năm 2024. Giá trị hạ thấp nhất là0,64m tại xã Chư Rcam, huyện Krông Pa (LK39T).
Mực nước trung bình tháng nông nhất là -1,1m tại xã Ialy, huyện Chư Pah (LK59T) và sâu nhất là -16,84m tại xã Ialy, huyện Chư Pah (LK62T). Trong tháng 02 và tháng 3 mực nước có xu thế hạ, mực nước hạ từ 0,13m đến 1,28m.