G+ ( dwrm.monre.gov.vn/kich-ban-nguon-nuoc--cong-cu-chien-luoc-bao-dam-an-ninh-nguon-nuoc-dong-bang-song-cuu-long-15930.htm)
Ngày 24/10, tại TP. Hồ Chí Minh, Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Nông nghiệp và Môi trường) phối hợp với các đơn vị liên quan tổ chức Họp tham vấn kỹ thuật với chủ đề “Tài nguyên nước Đồng bằng sông Cửu Long: Thực trạng, thách thức và giải pháp quản lý tổng hợp, chuyển đổi số trong bối cảnh biến đổi khí hậu”.
Cuộc họp do Cục trưởng Châu Trần Vĩnh và Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà đồng chủ trì, với sự tham dự của đại diện các Bộ, ngành, viện nghiên cứu, chuyên gia trong lĩnh vực tài nguyên nước và các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
Thách thức gia tăng - yêu cầu chuyển từ “bị động” sang “chủ động” nguồn nước
Phát biểu tại cuộc họp, Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà nhấn mạnh, trong vòng một thập kỷ qua, các địa phương trên lưu vực sông Cửu Long liên tục đối mặt với hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng, điển hình là các mùa khô 2015–2016, 2019–2020 và 2023–2024. Tần suất hạn hán và xâm nhập mặn lặp lại 4 năm 1 lần, cho thấy rủi ro nguồn nước đang ngày càng gia tăng.
_d0b53c11f8.jpg)
“Nếu xét về mức độ hạn hán và xâm nhập mặn, năm 2019–2020 thậm chí còn khốc liệt hơn năm 2015–2016. Tuy nhiên, nhờ sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, sự chủ động vào cuộc của các địa phương và hệ thống cảnh báo sớm hiệu quả, thiệt hại đã giảm đáng kể,” Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà cho biết.
Theo Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà, bài học rút ra là phải chủ động quản trị nguồn nước – từ cảnh báo sớm, dự báo dòng chảy đến điều hòa, phân phối hợp lý giữa các vùng. “Chúng ta cần chuyển từ thế ‘bị động ứng phó’ sang ‘chủ động thích ứng’ với mọi tình huống, bảo đảm an ninh nước cho sản xuất, sinh hoạt và phát triển kinh tế - xã hội,” ông Ngô Mạnh Hà nhấn mạnh.
Luật Tài nguyên nước 2023 – Cơ sở pháp lý cho quản lý tổng hợp, thống nhất theo lưu vực sông
Theo Phó Cục trưởng Ngô Mạnh Hà, Luật Tài nguyên nước năm 2023 đã thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng và Nhà nước về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng và phục hồi nguồn nước một cách tổng hợp, thống nhất theo lưu vực sông.
Trong đó, việc điều hòa, phân phối tài nguyên nước được coi là công cụ trọng yếu nhằm sử dụng hiệu quả và công bằng nguồn tài nguyên quý giá này. Căn cứ vào quy hoạch tài nguyên nước với chu kỳ 10 năm, hằng năm Bộ Nông nghiệp và Môi trường sẽ chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương để xây dựng và công bố Kịch bản nguồn nước (KBNN) trên lưu vực sông đã có quy hoạch tổng hợp.
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà cũng cho biết, qua theo dõi diễn biến nguồn nước mùa cạn năm 2024-2025 trên lưu vực, các hồ chứa lớn phía thượng nguồn bước đầu có thể thấy các đánh giá, nhận định về trạng thái nguồn nước của KBNN tương đối phù hợp với thực trạng, diễn biến nguồn nước và khai thác, sử dụng nước trên lưu vực.
_ce95a9ce1e.jpg)
Hợp tác liên ngành và quốc tế – Chìa khóa bảo đảm an ninh nguồn nước
Để có được kết quả này, việc tăng cường hợp tác quốc tế với các nước thượng nguồn sông Mê Công, sự phối hợp chặt chẽ liên ngành giữa các Bộ, giữa địa phương với trung ương và sự tham gia tích cực của các đơn vị quản lý vận hành hệ thống công trình thủy lợi, cấp nước trong việc cung cấp các thông tin, số liệu tin cậy phục vụ xây dựng KBNN là cực kỳ quan trọng và là chìa khóa thành công cho lần công bố đầu tiên để phù hợp với thực tế.
Theo Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Ngô Mạnh Hà, nhiệm vụ xây dựng Kịch bản nguồn nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý tài nguyên nước, qua thực tế triển khai xây dựng KBNN cho thấy đây là nhiệm vụ không chỉ đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ từ trung ương đến địa phương mà còn đòi hỏi quá trình tính toán, đánh giá chuyên sâu về diễn biến nguồn nước gắn với thực tế về tình hình khai thác, sử dụng nước...
Cục Quản lý tài nguyên nước hiện đang phối hợp với Cục Khí tượng thủy văn, Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, Trung tâm quy hoạch và Điều tra tài nguyên nước quốc gia, Viện Khoa học tài nguyên nước và Viện Khoa học thủy lợi Việt Nam cùng các chuyên gia để xây dựng Kịch bản nguồn nước lưu vực sông Cửu Long cho mùa kiệt 2025-2026 và dự kiến trình Bộ ban hành trước tháng 11/2025.
_159334cf3e.jpg)
Tại cuộc họp, các chuyên gia và đơn vị chuyên môn đã trình bày các tham luận quan trọng liên quan đến tài nguyên nước ĐBSCL, từ tác động xuyên biên giới đến công tác quan trắc, dự báo và giải pháp thích ứng biến đổi khí hậu.
Theo đại diện Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, lượng phù sa về ĐBSCL đã giảm khoảng 50% so với trước đây. Đồng bằng đang bị sụt lún từ 1,5–4 cm/năm, có nơi tới 5 cm/năm, trong khi mặn xâm nhập sâu hơn dọc các sông chính.
Chất lượng nước trên dòng chính sông Mê Công vẫn ở mức “tốt”, song một số trạm quan trắc tại Việt Nam đã ghi nhận xu hướng suy giảm. Đặc biệt, đa dạng sinh học thủy sinh đang suy giảm nghiêm trọng: trong 414 loài cá được thống kê, 24 loài bị đe dọa tuyệt chủng, nhiều loài như cá tra dầu, cá hô gần như biến mất.
Đại diện Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam cho biết, các thách thức lớn của sông Mê Công hiện nay là suy giảm dòng chảy, xâm nhập mặn, ô nhiễm xuyên biên giới và ô nhiễm nội vùng do nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp. Chất lượng nước mặt phần lớn ở mức “trung bình” – còn phù hợp cho tưới tiêu, nuôi trồng thủy sản, nhưng nước ngầm đang ô nhiễm Nitơ (NH4+, NO2-) vượt quy chuẩn; một số khu vực còn nhiễm kim loại nặng.
_0630f7b475.jpg)
Giải pháp thích ứng: Khoa học - Công nghệ - Chuyển đổi số
Để đảm bảo khai thác và sử dụng nước hiệu quả trong bối cảnh biến đổi khí hậu, các chuyên gia đề xuất loạt giải pháp đồng bộ như: Tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ và trí tuệ nhân tạo trong thu thập, dự báo, cảnh báo và giám sát nguồn nước; hiện đại hóa mạng lưới quan trắc; Nâng cao hiệu quả vận hành công trình thủy lợi, cấp nước, xây dựng cơ chế điều phối liên vùng; Tăng cường công tác truyền thông, nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ tài nguyên nước; Ứng dụng công nghệ tưới tiết kiệm nước, chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo dự báo nguồn nước và điều kiện tự nhiên; Xây dựng bản đồ khoanh định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, lập hành lang bảo vệ nguồn nước; Khuyến khích xã hội hóa đầu tư hạ tầng cấp nước sinh hoạt, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng thường xuyên chịu hạn mặn;….
_aa94e9b4db.jpg)
Ngoài ra, cần phát huy mô hình “tích nước mùa mưa – dùng mùa khô”, tận dụng hệ thống kênh rạch tự nhiên để trữ nước, kết hợp các giải pháp “mềm” như điều tiết linh hoạt và “cứng” như xây dựng, cải tạo công trình thủy lợi kiểm soát mặn.
Đại diện Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam nhấn mạnh, ĐBSCL đang chịu sức ép kép: biến đổi khí hậu và hoạt động của con người ở thượng nguồn. Dòng chảy mùa kiệt biến động, mạng lưới đo đạc còn hạn chế khiến công tác dự báo, điều hành gặp khó khăn. Theo đó, phát triển ĐBSCL cần theo hướng “thích nghi có kiểm soát” – chủ động tạo ra chế độ nước hợp lý trên nền tự nhiên, giảm rủi ro trong sản xuất nông nghiệp. Các công trình nạo vét kênh mương, đắp đập tạm ngăn mặn, xây dựng hệ thống thủy lợi kiểm soát mặn – ngọt đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ sinh kế và phát triển bền vững.
Phát biểu ý kiến tại cuộc họp, các đại biểu cũng bày tỏ thống nhất, Kịch bản nguồn nước lưu vực sông Cửu Long mùa kiệt 2025–2026 là công cụ hết sức cần thiết và mang tính chiến lược. Khi được hoàn thiện và đưa vào sử dụng, KBNN sẽ hỗ trợ các địa phương chủ động điều hành, ứng phó và sử dụng hiệu quả nguồn nước, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia nói chung và vùng ĐBSCL nói riêng.
DWRM